Hơn 27 năm qua, Việt Nam có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Trong năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của cộng đồng kinh tế toàn cầu thông qua đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO. Từ đó, Việt Nam trở thành quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ và phát triển kinh tế sản xuất, dịch vụ từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống.
1. Việt Nam phát triển kinh tế nhanh thứ hai châu Á
Đất nước Việt Nam từng bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Đi lên từ nhũng nổi đau mất mát ấy, Việt Nam đã nhanh chóng chuyển mình sau hơn một phần tư thế kỉ. Những quyết định cải cách theo đường lối “đổi mới” của Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam trở thành điểm thu hút đầu tư lớn từ nước ngoài cũng như phát triển nội tại thúc đẩy nền kinh tế đất nước đứng thứ hai châu Á sau Trung Quốc. Đó là thành công mà nước ngoài không thể ngờ Việt Nam sẽ đạt được sau những gì đã phải trải qua trong chiến tranh.
Trong thời kỳ này, kinh tế Việt Nam đã mở rộng hơn bất kỳ một nền kinh tế châu Á nào khác, với tăng trưởng GDP tính trên đầu người hàng năm là 5,3%. Đáng nói hơn khi mức tăng trưởng này vẫn duy trì ổn định trước khủng hoảng tài chính châu Á diễn ra vào những năm 1990 và trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu suy thoái. Từ năm 2005 đến 2010 kinh tế Việt nam vẫn duy trì mức tăng trưởng 7%/năm, mạnh hơn nhiều so với những nền kinh tế châu Á khác.
2. Việt Nam đang đi lên từ cây lúa
Một loại cây lương thực quý đối với người Việt
Nền kinh tế Việt Nam không còn chỉ xoay quanh nông nghiệp. Trong thực tế, đóng góp từ nông nghiệp vào GDP của đất nước đã giảm từ 40% xuống 20% sau 15 năm, điều mà thế giới chưa từng chứng kiến ở bất kì quốc gia Châu Á nào khác. Nếu so với 29 năm của Trung Quốc và 41 năm của Ấn Độ để đạt được điều tương tự, sẽ không quá khi gọi đó là sự thành công của Việt Nam. Sự thay đổi lao động từ Nông nghiệp chuyển sang Công nghiệp và Dịch vụ đã góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam. Kết quả, phần đóng góp của nông nghiệp vào GDP đất nước đã giảm thêm 6,7% trong khi phần đóng góp của công nghiệp tăng thêm 7,2%.
3. Đứng trong Top đầu thế giới về xuất khẩu nhiều mặt hàng Nông sản
Việt Nam đang dẫn đầu thế giới trong việc xuất khẩu các loại mặt hàng nông sản như Hạt tiêu, Hạt điều, Cà phê và Gạo. Trong năm 2010, Việt Nam cung cấp cho thế giới 116.000 tấn gia vị, đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo và cà phê sau Thái Lan. Và chỉ sau Brazil về xuất khẩu cà phê, lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam đã tăng gấp 3 lần chỉ trong 4 năm. Việt Nam đứng thứ 5 thế giới trong sản xuất chè và thứ 6 toàn cầu về xuất khẩu hải sản như cá, tôm.
4. Việt Nam không phải bản sao của các nước Châu Á
Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ một phần nhờ nhân công giá rẻ mà còn vì nhân công Việt Nam có tay nghề cao, tư duy sáng tạo và kinh nghiệm. Không những vậy, chính sách của Chính phủ Việt Nam luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài giống nhiều nước châu Á. Tuy nhiên có rất nhiều điểm khác biệt. Đầu tiên, kinh tế Việt Nam thúc đẩy tiêu dùng cá nhân mạnh hơn. Tiêu dùng hộ gia đình ở Việt Nam chiếm 65% GDP, con số đáng mơ ước của nhiều nước châu Á trong khi tại Trung Quốc chỉ đạt 36%. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế nhanh của Trung Quốc dựa vào xuất khẩu và tiền vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt cao tuy nhiên, Việt Nam cân bằng hơn giữa sản xuất và dịch vụ và mỗi cái chiến khoảng 40% GDP. Tăng trưởng Việt Nam rộng rãi hơn và có sự cạnh tranh trên nhiều mặt góp phần tăng tính ổn định của phát triển kinh tế.
5. Là nam châm thu hút đầu tư nước ngoài
Việt Nam đang đứng đầu danh sách những thị trường mới nổi hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Khảo sát của Economist Intelligence Unit (EIU), một tạp chí uy tín kinh tế Anh đã xếp hạng Việt Nam đứng thứ tư trong danh sách những nền kinh tế thu hút đầu tư nước ngoài nhất thế giới. Chỉ sau Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Số FDI chảy vào Việt Nam tăng từ 3,2 tỷ USD năm 2003 lên 71,7 tỷ USD năm 2008 trước khi tụt xuống 21,5 tỷ USD vào năm 2009 do suy thoái toàn cầu. Ngoài ra, lượng du khách tới Việt Nam đã tăng 1/3 so với năm 2005.
6. Một số cơ sở hạ tầng Việt Nam tiên tiến hơn Philippines và Thái Lan
Ảnh minh họa
Việt Nam có những đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng. Nhằm phục vụ phát triển kinh tế, Việt Nam đã xây dựng hệ thống đường xá khá hiện đại và quy mô. Mật độ đường đã lên tới 0,78km/km vuông vào năm 2009, cao hơn mật độ ở Philippines và Thái Lan, hai nền kinh tế phát triển mạnh. Ngoài ra, điện lưới đã được kéo đến 96% lãnh thổ đất nước gồm cả những khu vực vùng sâu vùng xa. Nhiều sân bay, cảng biển được xây dựng nhằm phục vụ vận chuyển hàng hóa và giao thương giữa Việt Nam và quốc tế.
7. Thế hệ trẻ Việt Nam đều được phổ cập Internet
Việt Nam là quốc gia có dân số trẻ, được đào tạo tốt và ngày càng tiếp cận nhiều với khoa học công nghệ. Số thuê bao điện thoại ở Việt Nam hiện đạt 170 triệu trong đó có 154 triệu là thuê bao di động. Ngoài ra, số thanh niên Việt Nam tiếp xúc với Internet dù chỉ đạt 31%, nhưng đã có những gia tăng theo cấp số cộng hàng năm. Ngoài ra, trong năm 2010, Việt Nam đã đạt 7,7 triệu thuê bao Internet qua mạng 3G, một con số đáng ngạc nhiên.
8. Ngân hàng Việt Nam thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển nội tại
Ngân hàng Việt Nam thúc đẩy doanh nghiệp trong nước
Ngân hàng Việt Nam đang cho các doanh nghiệp và công ty trong nước vay một số lượng tiền lớn với mức tăng tới 33% mỗi năm. Nó cho thấy sự năng động của nền kinh tế Việt Nam tuy nhiên điều này cũng gây ra những lo ngại nợ xấu có thể gây ảnh hưởng đến nền kinh tế, hệ thống ngân hàng và người nộp thuế.
9. Việt Nam đang mất cân đối về lực lượng lao động
Lực lượng lao động trẻ và sự chuyển dịch nhanh chóng từ lao động nông nghiệp sang công nghiệp đã tạo ra những động lực cho tăng trưởng của Việt Nam. Tuy nhiên, cả hai sự thúc đẩy đó đang có dấu hiệu suy yếu dần nên sự tăng trưởng của Việt Nam được dự báo sẽ giảm xuống trong thập kỉ tới. Chính vì lẽ đó, Việt Nam phải tăng hiệu suất lao động nhằm duy trì tăng trưởng của nền kinh tế.
10. Ngoài ra, Việt Nam còn trở thành điểm hàng đầu cho các dịch vụ gia công
Có hơn 100.000 người đã làm việc trong ngành dịch vụ gia công và lao động xuất khẩu. Một số công ty đa quốc gia nổi tiếng đã thiết lập hoạt động ở Việt Nam gồm Hewlett-Packard, IBM, Panasonic. Trên thực tế, Việt Nam có tiềm năng trở thành một trong 10 địa điểm hàng đầu thế giới về lĩnh vực này, do có số lượng sinh viên đã tốt nghiệp tương đối lớn, mức lương trung bình. Giá thuê một lập trình viên phần mềm ở Việt Nam chưa đầy 60% giá thuê một nhân công tương tự ở Trung Quốc. Ngoài ra, những lao động trong các lĩnh vực khác cũng tìm đến Việt Nam để làm việc và sinh sống ngày càng nhiều chứng tỏ Việt Nam là một thị trường hứa hẹn.
Bách Thảo